Đêm đó, C cũng trằn trọc không ngủ được, có lẽ do thay đổi múi giờ. Anh choàng cái áo khoác vào, rồi ra vườn đi dạo. Cảnh vật nơi đây quả thật làm cho con người ta thư thái, ánh đèn trang trí trong vườn nhòe đi, lung linh trong làn sương mỏng sà sát mặt đất, nhìn lên cao bầu trời vẫn trong veo đầy sao. Vào đến căn chòi nhỏ dưới tán thông, C thả người xống băng ghế gỗ, hít một hơi dài… Cuộc sống này thật kỳ lạ, anh không sinh ra tại đây, nhưng không biết bao nhiêu lần có một lực vô hình nào đó cứ kéo anh về với Đất Mẹ. Cơ duyên đưa đẩy, lần nọ C vô tình bắt chuyện với ông Vương khi đang đợi nối chuyến ở sân bay Charles de Gaulle. Dần dà kết nối thân tình, được ông Vương giới thiệu, anh cũng đã là một thành viên của Hội đồng.
Năm C chào đời tại một bệnh viện nhỏ ở Denver, mẹ anh vì sức khỏe yếu mà không qua khỏi. Người cha nén lại đau thương, cặm cụi nuôi anh ăn học. Cả tuổi thơ C là một quãng thời gian dài bị chúng bạn đem ra làm trò, chỉ vì anh là một thằng Châu Á, chỉ vì anh không có mẹ… Nhiều lúc C tức lắm, bay vào sống mái với bọn ăn hiếp nhưng vì nhỏ con nên lần nào anh cũng bị yếu thế, mình mẩy bầm tím. Cha anh không vì thế mà quát mắng, chỉ nhỏ nhẹ nhắc nhở C hãy nhớ về mẹ, về nguồn gốc của mình mà có động lực vươn lên. Ông biết anh thua thiệt về thể chất với bạn bè nên cố ý bắt anh cuối tuần ra nông trại phụ việc nặng nhọc, một phần cũng để rèn luyện tính kiên trì cho một đứa bé từ nhỏ.
Cũng phải mất mấy năm để C rèn luyện được tinh thần của mình trong cái xã hội Mỹ vẫn còn mang đậm tính phân biệt thời đó. Được cái anh rất thông minh, học đâu hiểu đó, từ tiểu học tới trung học đều đứng đầu trường. Thậm chí đám bạn bắt nạt C còn quay lại nhờ cậy anh phụ đạo thêm hòng cải thiện điểm số, rất nhanh sau đó đã từ thù thành bạn, đứng ra bảo vệ C mỗi khi có ai đó ngoài đường vô cớ bắt nạt anh. Điều này thực ra được cha C chỉ dạy, khi mình đang ở thế yếu thì hãy bỏ qua cái tôi, tận dụng tất cả đòn bẩy mà bản thân có để vươn lên. Mặc dù lúc nhỏ không hiểu lắm nhưng C vẫn vô tư áp dụng được thành công hai đòn bẩy lớn nhất của mình khi đó là sự thông minh sáng dạ và bản tính lương thiện, thích giúp đỡ người khác. Tại lễ tốt nghiệp trung học, cả trường đồng loạt vỗ tay như sấm khi C bước lên bục đọc bài diễn văn danh dự. Sau đó, C nhận được một lúc 5 lời mời từ các trường đại học hàng đầu trong danh sách Ivy League nhưng anh đã từ chối hết, chọn học ở Denver.
Để tiết kiệm thời gian, C học luôn một lúc hai bằng: khoa học máy tính và tài chính. Nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng riêng đối với C thì rất bình thường. Từ nhỏ đã thấy cha mình vất vả kiếm từng đồng chỉ để nuôi sống gia đình và cho anh ăn học, C quyết tâm phải làm ngành tài chính vì nghe nói tất cả những người làm tài chính, đặc biệt ở phố Walls, đều là triệu phú. Đến thời của C, Internet bắt đầu phổ biến dần dần, ở trường trung học còn lắp mấy cái máy tính cài Windows 3x để vọc vạch, kết nối qua đường dây điện thoại bàn. Trước mắt C như được mở ra chân trời mới, anh lao vào mày mò, học hỏi bất cứ khi nào có thời gian. Mà thực ra thì đa số máy tính trong trường thời đó đều trống cả ngày, vì cả bạn và thầy cô đều mù tịt và cảm thấy khó khăn khi thao tác. C thì khác, anh bắt đầu tìm hiểu về lập trình, về giao thức, về bảo mật… rồi tự khi nào nhen nhóm lên ngọn lửa đam mê công nghệ của mình.
Tốt nghiệp đại học ngay giai đoạn bùng nổ Dot Com, C cũng lao vào làm giàu, từ vài ngàn đô la dành dụm khi đi làm thêm, chỉ trong mấy tháng anh nhanh chóng nhân lên thành mấy trăm ngàn đô từ cổ phiếu những công ty Internet mới nổi. Thị trường lúc đó cực khát máu, cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm 1999 cả chục cổ phiếu vốn hóa lớn tăng hơn 1,000%, thậm chí giá của Qualcomm tăng đến 2,619%. Nhưng khác với số đông, C vận dụng cực kỳ tốt vốn kiến thức mình đã tích lũy từ thời đi học. Anh chẳng lạ gì mô hình của phần lớn những công ty Dot Com khi doanh thu thì ít nhưng chi tiêu rất nhiều, lại được định giá cao. Đọc thêm về những huyền thoại như Benjamin Graham, Warren Buffett, hay Jesse Livermore, C sớm đã định hình phong thái của mình trong cái thị trường vốn rất bấp bênh này.
Chẳng biết là do may mắn, hay do kiến thức, hoặc cũng có thể là cả hai, trước khi thị trường sụp đổ đúng 55 ngày, C bán hết cổ phiếu đem về gần chục triệu đô la. Sau đó anh quay về nông trại của cha, ngày ngày làm nông dân, chăm bón cánh đồng bắp, lái xe thu hoạch lúa mì, dọn dẹp, cắt cỏ, vắt sữa cho bò… Tối tối anh cùng cha ngồi đốt lửa nướng thịt, làm vài chai bia. Cuộc sống rất thoải mái và yên bình. Thời gian rảnh, C vẫn kiểm tra tin tức, kết nối với bạn cũ thời đại học, đặc biệt là mấy tên “lập dị” cùng nhóm ở trường khoa học máy tính. Một trong số những người bạn này lúc đó đang là trưởng bộ phận kỹ thuật một công ty chuyển tiền trực tuyến có tên là PayPal.
Bên cạnh đó, C vẫn theo dõi sát sao thị trường chứng khoán để tìm thời cơ quay lại, dù gì cũng là nơi giúp anh thành triệu phú. Máu làm giàu vẫn hừng hực trong người C, có lần anh bỏ hơn 300 ngàn đô để mua cả triệu cổ phiếu một công ty có tên là Apple, chỉ vì thấy mấy cái iPod hãng này mới ra mắt có vẻ hay hay, anh đoán chắc họ sẽ có tương lai lắm.
Tận hưởng cuộc sống nông trại chưa đầy hai năm, C lại được dẫn dắt vào con đường mới: khởi nghiệp. Người bạn của anh lúc này vừa kiếm được mười mấy triệu đô la từ thương vụ eBay thâu tóm PayPal, đã tách riêng và dự định thành lập một doanh nghiệp công nghệ. Biết C vừa nắm kỹ thuật, vừa rành rẽ tài chính, muốn ngỏ ý mời anh về làm đồng sáng lập. C chần chừ, anh còn quá trẻ, chỉ vừa qua 25, đâu biết gì về vận hành công ty. Suy nghĩ vài đêm, cân nhắc thiệt hơn, anh quyết định tham gia cùng bạn. C quan niệm đây có lẽ là cái duyên cho hai thằng cùng học chung, lại mở công ty cùng nhau, còn trẻ cứ dấn thân thôi, cũng chẳng sợ.
Đầu những năm 2000, thị trường công nghệ mặc dù bị ảnh hưởng từ trào lưu Dot Com, lại được hưởng lợi là nhiều khi nền tảng bắt đầu được thiết lập, thu hút ngày càng nhiều sự chú ý từ thị trường lao động, các tổ chức đầu tư và cả chính phủ. Công ty non trẻ của C và bạn anh cũng vậy, cả hai chọn Palo Alto ở Silicon Valley để đặt trụ sở. Khu vực này cực kỳ sôi động với giới công nghệ, có sẵn văn phòng chính của những công ty lớn từ cách đó hơn hai chục năm, lại có cả trăm cả ngàn công ty nhỏ quy tụ về, tạo nên một hệ sinh thái vô cùng phù hợp để bắt đầu khởi nghiệp.
Lại một lần nữa, may mắn gõ cửa C khi công ty vận hành được hơn năm trời thì có quỹ đầu tư mạo hiểm đánh tiếng muốn rót vốn. Suốt khoảng thời gian đầu, cả hai vẫn sử dụng tiền cá nhân là nhiều, mỗi người đóng góp năm mươi phần trăm số vốn. Khi quỹ mạo hiểm đến, họ đẩy định giá công ty lên hẳn mười lăm triệu đô la, còn hỗ trợ thêm nguồn lực quản lý và tư vấn mở rộng thị trường ra quốc tế. Không lâu sau, một công ty viễn thông hàng đầu lại kết nối, họ đánh giá nền tản mà doanh nghiệp của C đang xây dựng rất phù hợp để hỗ trợ dịch vụ của họ, làm bàn đạp đẩy mạnh doanh thu ngoài Mỹ. Lần này thương thảo cũng nhờ quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ, bán được công ty với giá bốn mươi lăm triệu đô, C và ông bạn đút túi mỗi người một phần ba, lại còn được mời về đầu quân tiếp cho công ty viễn thông nọ, nắm các vị trí phó chủ tịch cấp cao.
Không đầy sáu tháng, C bắt đầu cảm thấy bí bách với việc đi làm thuê, anh đã quá quen sự tự do thường có của mình, không thể hòa nhập được vào môi trường suốt ngày chỉ có mặc vest đi hội họp. Một lần, trong buổi tiệc rượu công ty, C trò chuyện với chị giám đốc quỹ đầu tư mạo hiểm ngày trước, hiện đã đổi sang một quỹ khác rất nổi tiếng là Sequoia Capital, anh tìm thấy con đường tiếp theo của anh…
Vị giám đốc chia sẻ rằng mình đang cân nhắc làm nhà đầu tư thiên thần cho một vài công ty mới toanh, cũng làm về công nghệ, biết C là người chắc kỹ thuật nên muốn nhờ anh tư vấn. C rất nhiệt tình, ngay ngày hôm sau đã phân tích giúp được chị ấy lựa chọn được đối tượng phù hợp, có tiềm năng lâu dài trong tương lai. Lúc đang cà phê tán gẫu, vị giám đốc chợt hỏi mời C vào ngành đầu tư mạo hiểm vì thấy anh rất có thiên phú. C rất bất ngờ, nhưng vẫn xem đó là lời mời thật tình, anh chẳng biết đầu tư mạo hiểm là như thế nào, nhưng nhìn lại lúc khởi nghiệp, anh cũng đâu có sẵn cái gì trong tay. Đêm đó nằm vắt tay lên trán suy nghĩ, C có linh cảm đây là cái gì đó đã chờ mình lâu lắm rồi. Trưa hôm sau, anh quyết định đồng ý lời mời của chị giám đốc nọ để tham gia vào Sequoia.
Chỉ trong năm năm đầu tiên tại Sequoia, C đã quyết định đầu tư hàng tỷ đô la vào rất nhiều công ty công nghệ mới, bên cạnh đó anh còn làm nhà đầu tư thiên thần của hàng chục nhóm khởi nghiệp khác nữa. Vào trong ngành, C mới nhận ra, nhân tài người Việt ở thung lũng Silion cũng không ít, nhiều lúc còn cạnh tranh trực tiếp với nhân lực Ấn Độ. Chỉ cần một phần số nhân tài này quay về nước lập nghiệp, đầu tư thì quê nhà sẽ phát triển rất thịnh vượng…
“Anh C cũng không ngủ được nhỉ?”, giọng O cắt ngang dòng suy nghĩ của C. Không biết cậu đã đến từ lúc nào.
“Ừ, chắc do jet lag, cậu cũng vậy nhỉ?”, C cười đáp lại.
O lúc này cũng đã ngả lưng xuống băng ghế gỗ đối diện C, “em thấy buổi chiều lúc mình đến, có xe giao rượu vang vừa đi ra, đợt này lại được thưởng thức nhãn hiệu trứ danh của chú Vương rồi. Loại này nổi tiếng thế giới mà hiếm quá, thậm chí hoàng gia bên Dubai còn khó khăn mới tìm được, vậy mà chú ấy mỗi lần nhập cả xe tải luôn ấy. À vườn nho của anh bên Bordeaux có sản phẩm gì mới không? Dạo này em đổi qua vang Pháp rồi.”
“Chà hỏi đúng lúc đấy, năm ngoái bọn anh trồng được một giống đặc biệt, vừa thử được mấy mẻ tháng trước. Để anh báo bên kia gửi cho cậu một thùng uống thử”. C cũng là người mê rượu vang, cơ duyên gặp chú Vương cũng từ rượu vang mà ra…
Năm đó, C đang ngồi ở Charles de Gaulle đợi nối chuyến đến Bordeaux để thương thảo mua vườn nho và hầm rượu mới. Anh đã sở hữu sẵn một vùng trồng nho cũng khá rộng lớn ở Napa Valley nhưng vẫn muốn tìm thêm địa điểm khác ở Ý, Pháp hoặc Tây Ban Nha để hàng năm có thêm lựa chọn đi nghỉ dưỡng. Trong lúc C tranh thủ xem qua một số tài liệu đối tác gửi, một người lạ bất chợt ghé vào bắt chuyện với anh, đó là chú Vương.
“Cậu cũng đi Bordeaux chơi à?”, ông Vương hỏi.
“Đúng rồi chú, vừa đi chơi vừa công việc. Nhưng sao chú biết cháu là người Việt?”, C trả lời, trong lòng dấy lên một cảm giác kỳ lạ, cực kỳ thân thuộc, dường như anh đã biết người đàn ông này từ lâu lắm rồi.
“Tôi nhìn là biết ngay, không lẫn vào đâu được. Có vài vườn nho ngon hảo hạng, hay là đến đấy chúng ta ghé một chỗ thưởng thức nhé, tôi sẽ nói thêm tại sao nhìn ra ngay cậu là người Việt”.
Câu chuyện của chú Vương tại nhà hàng rượu vang đã đưa C đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác về nguồn gốc, về vị thế đáng lẽ phải có của tộc Việt nhưng đã bị vùi dập hết mấy ngàn năm. Hai người cứ thế đàm đạo đến quá nửa đêm, C lúc này hiểu được cái thôi thúc vô hình bên trong anh là gì, anh cần phải trở về…
(còn tiếp)
—–